Cây Kế Sữa (Cây cúc gai)

Rate this post

Cây kế sữa có tên khoa học là Silybum marianum, còn được gọi là kế thánh, kế đức mẹ, cúc gai, là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Kế sữa vốn mọc hoang dã ở vùng Ðịa Trung Hải. Kể từ khi y học phát hiện ra dược chất silymarin trong cây kế sữa có tác dụng chữa bệnh thì loại cây này đã được trồng khắp nơi trên thế giới. Nó là một loại thực phẩm chức năng phổ biến được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ và Châu Âu.

Cây kế sữa có thể được trồng bằng cách gieo hạt trực tiếp xuống đất. Môi trường sinh trưởng của cây kế sữa là ở những vùng khô ráo, nhiều ánh nắng mặt trời. Cây kế sữa trưởng thành cao từ 1,2m đến 3m; lá lớn có chấm hoặc gân màu trắng; bông màu đỏ tím; trái nhỏ, có vỏ cứng màu nâu bóng với nhiều chấm. Toàn thân cây và lá đều có những gai nhỏ li ti đâm vào da rất nhức nên người ta phải mang bao tay dầy khi thu hoạch. Trà làm từ cây kế sữa đã được sử dụng cho việc điều trị các bệnh về gan trong thời cổ đại. Từ thời Hy Lạp cổ đại (Theophrastus, thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên) và La Mã (Pliny the Elder thế kỷ 1), hạt giống của cây kế sữa đã được sử dụng để bảo vệ gan. Trong thế kỷ 1, Dioskurides sử dụng loài cây này như một loại thuốc gây nôn, cũng như một loại dược thảo cơ bản thời bấy giờ. Nó đã trở thành một loại thuốc được chuyên dùng để điều trị các bệnh gan mật vào thế kỷ 16 và vào năm 1960 ở trung tâm châu Âu. Cây kế sữa có chiều cao lên đến 6 feet, đặc biệt phát triển tốt trên các sườn dốc nắng ở các nước Địa Trung Hải như Tây Ban Nha và Hy Lạp. Hoa cây kế sữa nở từ tháng 6 đến tháng 8, các hạt màu đen được thu hoạch vào cuối mùa hè để sử dụng cho các mục đích y học.

Cây Kế Sữa (Cây cúc gai),cây kế sữa, cây cúc gai, cây kế đức mẹ, họ Cúc,

Cây kế sữa đã trở nên khá hiếm tìm ở Anh, tuy nhiên chúng vẫn xuất hiện nhiều ở các quốc gia châu Âu khác. Loài cây này được trồng làm cây công nghiệp ở khắp các quốc gia trên thế giới như Argentina, Australia, Texas, Russia, China, Germany, Romania hay Hungary, đặc biệt là ở các vùng khí hậu nóng và có lượng mưa thấp hoặc trung bình.

Các nhà thảo dược học đã từng sử dụng cây kế sữa như một loại thuốc lợi sữa và bổ thai, và hướng đi này đã được chứng minh lại bởi các nghiên cứu hiện đại. Vào thế kỉ 17 nhà thảo dược học nổi tiếng người Anh Nicholas Culpeper đã gợi ý việc sử dụng cây kế sữa trong điều trị sốt rét và dịch hạch. Ông cũng cho rằng nó có thể chữa “những cơn đau vùng bên” – những cơn đau hông hay chính là sự khó chịu ở vùng gan. Ông đã hướng dẫn cách sử dụng chúng trong việc loại bỏ những cơn đau ở gan và lá lách đồng thời chữa chứng bệnh vàng da, trong đó bệnh nhân uống hạt kế sữa đã sắc hoặc thấm vào vải và đắp nó lên vùng bị đau.

Những dòng sữa trắng trong từ cây kế sữa.

Xem thêm: Cây Hoàng Đàn

Những nghiên cứu chọn lọc từ nhiều quốc gia trên thế thời sau đó đã chỉ ra rằng silymarin, một hoạt chất có trong hạt kế sữa, có tác dụng bảo vệ và phục hồi gan, thậm chí tác động tích cực đến trí nhớ và khả năng sắp xếp ở não bộ của bệnh nhân. Culpeper cũng gợi ý rằng việc ăn cây kế sữa non vào mùa xuân có tác dụng lọc máu và tăng cường tuần hoàn máu. Tương tự, những nghiên cứu này cũng cho rằng bột nghiền từ hạt kế sữa sẽ có thể dùng trong điều trị các bệnh tim mạch.
Trong vòng hơn 50 năm qua, các nhà khoa học đã thành công trong việc xác định các hoạt chất có trong cây kế sữa, đáng chú ý nhất là nhóm ba chất liên quan có tên chung là silymarin. Các thí nghiệm đã chứng minh một cách chắc chắn rằng silymarin bảo vệ gan khỏi rất nhiều tác nhân độc tố gây hại. Một điều rất đáng kinh ngạc được tìm ra trong các thí nghiệm này đó là silymarin có thể ngăn cản độc tố từ cây nấm Tử Thần (Amanita phalloides). Loại độc từ loài nấm này được biết đến là một trong các thứ độc hại gan nhất mà con người từng biết, khi mà chúng có khả năng gây tổn thương vịnh viễn đến gan chỉ vài tiếng sau khi nạn nhân ăn phải.
Các nghiên cứu ở Đức và Mỹ đã chỉ ra rằng cây kế sữa vô cùng giá giá trị trong việc chữa trị các tổn thương ở gan gây ra do xơ gan do rượu, gan nhiễm mỡ và do dược phẩm, thuốc độc và thuốc gây mê. Loài cây này cũng rất hữu dụng trong điều trị vẩy nến.

Kết luận
Thực tế là các tác dụng của cây kế sữa đã được kiểm chứng qua việc sử dụng trực tiếp ở bệnh nhân từ thời trung cổ, và sau đó mới được kiểm nghiệm lại qua các thí nghiệm lâm sàng. Đây quả thực là một loại dược liệu tự nhiên vô giá mang lại nhiều lợi ích đối với sức khỏe con người. Tổng kết các tác dụng của cây kế sữa bao gồm:
+ Củng cố và tăng cường chức năng của các tế bào gan và thành gan,  ngăn cản nhiều loại độc tố xuyên thủng các mô mỡ và xâm nhập vào tế bào, đồng thời trung hòa các chất độc đã xâm nhập vào gan.
+ Tăng cường nhu động ruột và ngăn cản sự nhiễm độc, làm sạch thận và hỗ trợ bài tiết. Đặc biệt kế sữa có thể làm tan sỏi thận và sỏi mật.
+Làm dịu các cơn đau hành kinh và là một loại thảo dược tổng hợp hỗ trợ tiền kinh nguyệt rất có giá trị. 
+Hỗ trợ điều trị các chứng bệnh trầm cảm.
 
 Một số hình ảnh tham khảo về cây kế sữa:

có thể được trồng bằng cách gieo hạt trực tiếp xuống đất. Môi trường sinh trưởng của cây kế sữa là ở những vùng khô ráo, nhiều ánh nắng mặt trời. Cây kế sữa trưởng thành cao từ 1,2m đến 3m; lá lớn có chấm hoặc gân màu trắng; bông màu đỏ tím; trái nhỏ, có vỏ cứng màu nâu bóng với nhiều chấm. Toàn thân cây và lá đều có những gai nhỏ li ti đâm vào da rất nhức nên người ta phải mang bao tay dầy khi thu hoạch. Trà làm từ cây kế sữa đã được sử dụng cho việc điều trị các bệnh về gan trong thời cổ đại. Từ thời Hy Lạp cổ đại (Theophrastus, thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên) và La Mã (Pliny the Elder thế kỷ 1), hạt giống của cây kế sữa đã được sử dụng để bảo vệ gan. Trong thế kỷ 1, Dioskurides sử dụng loài cây này như một loại thuốc gây nôn, cũng như một loại dược thảo cơ bản thời bấy giờ. Nó đã trở thành một loại thuốc được chuyên dùng để điều trị các bệnh gan mật vào thế kỷ 16 và vào năm 1960 ở trung tâm châu Âu. Cây kế sữa có chiều cao lên đến 6 feet, đặc biệt phát triển tốt trên các sườn dốc nắng ở các nước Địa Trung Hải như Tây Ban Nha và Hy Lạp. Hoa cây kế sữa nở từ tháng 6 đến tháng 8, các hạt màu đen được thu hoạch vào cuối mùa hè để sử dụng cho các mục đích y học.đã trở nên khá hiếm tìm ở Anh, tuy nhiên chúng vẫn xuất hiện nhiều ở các quốc gia châu Âu khác. Loài cây này được trồng làm cây công nghiệp ở khắp các quốc gia trên thế giới như Argentina, Australia, Texas, Russia, China, Germany, Romania hay Hungary, đặc biệt là ở các vùng khí hậu nóng và có lượng mưa thấp hoặc trung bình.Các nhà thảo dược học đã từng sử dụng cây kế sữa như một loại thuốc lợi sữa và bổ thai, và hướng đi này đã được chứng minh lại bởi các nghiên cứu hiện đại. Vào thế kỉ 17 nhà thảo dược học nổi tiếng người Anh Nicholas Culpeper đã gợi ý việc sử dụng cây kế sữa trong điều trị sốt rét và dịch hạch. Ông cũng cho rằng nó có thể chữa “những cơn đau vùng bên” – những cơn đau hông hay chính là sự khó chịu ở vùng gan. Ông đã hướng dẫn cách sử dụng chúng trong việc loại bỏ những cơn đau ở gan và lá lách đồng thời chữa chứng bệnh vàng da, trong đó bệnh nhân uống hạt kế sữa đã sắc hoặc thấm vào vải và đắp nó lên vùng bị đau.Những nghiên cứu chọn lọc từ nhiều quốc gia trên thế thời sau đó đã chỉ ra rằng, một hoạt chất có trong hạt kế sữa, có tác dụng bảo vệ và phục hồi gan, thậm chí tác động tích cực đến trí nhớ và khả năng sắp xếp ở não bộ của bệnh nhân. Culpeper cũng gợi ý rằng việc ăn cây kế sữa non vào mùa xuân có tác dụng lọc máu và tăng cường tuần hoàn máu. Tương tự, những nghiên cứu này cũng cho rằng bột nghiền từ hạt kế sữa sẽ có thể dùng trong điều trị các bệnh tim mạch.Trong vòng hơn 50 năm qua, các nhà khoa học đã thành công trong việc xác định các hoạt chất có trong cây kế sữa, đáng chú ý nhất là nhóm ba chất liên quan có tên chung là silymarin. Các thí nghiệm đã chứng minh một cách chắc chắn rằngbảo vệ gan khỏi rất nhiều tác nhân độc tố gây hại. Một điều rất đáng kinh ngạc được tìm ra trong các thí nghiệm này đó là silymarin có thể ngăn cản độc tố từ cây nấm Tử Thần (Amanita phalloides). Loại độc từ loài nấm này được biết đến là một trong các thứ độc hại gan nhất mà con người từng biết, khi mà chúng có khả năng gây tổn thương vịnh viễn đến gan chỉ vài tiếng sau khi nạn nhân ăn phải.Các nghiên cứu ở Đức và Mỹ đã chỉ ra rằng cây kế sữa vô cùng giá giá trị trong việc chữa trị các tổn thương ở gan gây ra do xơ gan do rượu, gan nhiễm mỡ và do dược phẩm, thuốc độc và thuốc gây mê. Loài cây này cũng rất hữu dụng trong điều trị vẩy nến.Thực tế là các tác dụng của cây kế sữa đã được kiểm chứng qua việc sử dụng trực tiếp ở bệnh nhân từ thời trung cổ, và sau đó mới được kiểm nghiệm lại qua các thí nghiệm lâm sàng. Đây quả thực là một loại dược liệu tự nhiên vô giá mang lại nhiều lợi ích đối với sức khỏe con người. Tổng kết các tác dụng của cây kế sữa bao gồm:+ Củng cố và tăng cường chức năng của các tế bào gan và thành gan, ngăn cản nhiều loại độc tố xuyên thủng các mô mỡ và xâm nhập vào tế bào, đồng thời trung hòa các chất độc đã xâm nhập vào gan.+ Tăng cường nhu động ruột và ngăn cản sự nhiễm độc, làm sạch thận và hỗ trợ bài tiết. Đặc biệt kế sữa có thể làm tan sỏi thận và sỏi mật.+Làm dịu các cơn đau hành kinh và là một loại thảo dược tổng hợp hỗ trợ tiền kinh nguyệt rất có giá trị.+Hỗ trợ điều trị các chứng bệnh trầm cảm.

Source: dolatrees.com
Category: Cây

Bài viết liên quan

Để lại ý kiến của bạn:

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *